Ý NGHĨA CỦA VIỆC CÚNG TẾ
Lm Augustinô Hồ Văn Quý Tổng giáo phận Huế
NHẬP ĐỀ
Cúng tế không phải là hành vi đơn thuần cung kính.
Trong Thư Chung của các Giám mục Việt Nam ngày 14-11-1974, việc cúng giỗ với lễ
vật có "ý nghĩa thành kính, biết ơn, hiếu kính trình diện ông bà" (số
3), cũng như việc bái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương... là "để
tỏ lòng cung kính người đã khuất" (số 5). Những hành vi vừa kể được xem là
cùng loại "thành kính, cung kính".
Để nêu rõ tính cách thành kính
nói trên, Thư Chung dẫn chứng việc "Giáo Hội cho đốt đèn nến, xông hương,
nghiêng mình trước thi hài người quá cố" (số 5).
Đây là vấn đề: trong phụng vụ
Công giáo cũng như trong lễ nghi Á đông, người ta vẫn xông hương hay đốt hương
không những trước thi hài người quá cố, mà cả trước người còn sống nữa. Trong
Thánh lễ, chủ tế, các thừa tác viên, lễ sinh và cộng đoàn đều được xông hương.
Người xưa khi nghe đọc sắc chỉ của vua thì bày hương án, đốt hương và quỳ mà
nghe sứ giả đọc. Nhưng không bao giờ cúng người sống.
Như vậy, có sự khác biệt giữa
hai việc: đốt hương là tỏ lòng cung kính, còn cúng tế là việc thờ tự đối với
thế giới siêu hình: vong hồn, thần minh, Trời Phật... Đó là hành vi tôn giáo.
Ta có thể gặp thấy ý nghĩa tôn
giáo của việc cúng tế dưới những dạng nào?
I. NHỮNG Ý NGHĨA (CÓ THỂ
GẶP THẤY) CỦA VIỆC CÚNG TẾ.
1- Việc cúng tế đã hoàn
toàn mất hết ý nghĩa.
Trường hợp thấy tận mắt: Bà chủ
xe khách mỗi sáng bắc ghế, vói tay lên am lấy mấy cây hương tàn quăng xuống
đống rác dưới am, hất ly nước lạnh vào đống rác (giẻ rách, vỏ chuối, tàn
thuốc...), đặt lên am ly nước khác, thắp nén hương khác, thế là xong. Nhận xét:
Ở đây, việc cúng tế hằng ngày (ly nước) đã mất hết ý nghĩa, vì đáng lẽ bà chủ
phải uống ly nước đó. Chỉ còn là một nghi thức máy móc mà thôi.
2- Người chết hưởng hơi.
Trường hợp thường thấy: Trước
quan tài, bày chén cơm quả trứng. Sau đó đem quăng (có thể đổ cho heo). Nhận
xét: Đây là việc mê tín: tin rằng người chết hưởng của ăn vật chất. Nghịch đức
tin.
3- Tỏ lòng hiếu kính.
Bày tỏ lòng mình muốn phụng
dưỡng ông bànhư khi còn sống, tiếc rằng ông bà không còn để hưởng của ăn ngon
béo đang bày ra. Thí dụ: Vua Minh Mạng vi hành ban đêm, nghe tiếng khóc than
trong gia đình nọ. Vua vào, thấy thầy thư lại ngồi trước bàn thờ tổ tiên mà
khóc. Vua hỏi duyên cớ, thầy kể: lương tiền ít quá, ngày giỗ ông bà không sắm
được mâm cỗ để cúng ông bà. Nhận xét: Đây là quan niệm quá vật chất về hạnh
phúc: phải có của ăn ngon béo mới tỏ lòng hiếu kính xứng đáng và đúng mức.
Nghịch với đức cậy Phúc Âm: Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính
của Người (x. Mt 6,32t).
4- Trình tổ tiên thức ăn từ sản phẩm.
Do mình làm ra hoặc do ông bà để
lại và mình đã làm cho phát triển. Thí dụ: Sau khi thống nhất sơn hà, vua Gia
Long làm lễ tế cáo tại nhà Thái miếu: trình tổ tiên nhà Nguyễn sản phẩm tượng
trưng của giang sơn mà các tiên vương đã gầy dựng, và mình đã giành lại rồi mở
mang thêm(Đàng Trong và Đàng Ngoài). Vua nước Ngô là Phù Sai bại trận về tay
vua nước Việt là Câu Tiễn. Phù Sai xin tha, Câu Tiễn thương tình cấp cho một ấp
100 hộ để hưởng hoa lợi tại đất Việt. Phù Sai xin chết. Lý do: không còn gì để
cúng tế tổ tiên, có cúng thì cúng vua nước Việt mà thôi, như lời nhắn với Câu
Tiễn: "Tôi già rồi, không thờ đức vua được nữa".
Nhận xét: Đây là quan niệm coi vật chất là giá trị cao nhất: chỉ có sản phẩm
vật chất mới làm cho tổ tiên được vẻ vang. Nghịch Phúc Âm vì: a/ giá trị con
người không phải ở nơi vật chất, mà nơi đời sống công chính. Dụ ngôn người giàu
khờ dại: "Làm giàu cho mình thay vì làm giàu trước mặt Thiên Chúa"
(Lc 12,15tt). b/ trường hợp sản phẩm đó là do ông bà hoặc chính mình làm nghề
bất lương mà gầy dựng nên: của cải vật chất trở thành bằng chứng ô nhục, không
phải vinh dự cho cả ông bà lẫn con cháu.
5- Trình tổ tiên sản phẩm nhờ ơn tổ tiên mà có.
Đây là quan niệm cho rằng chính
ông bà đã ban cho mình sản phẩm mình có ngày nay. Quan niệm này hiển nhiên
nghịch với đức thờ phượng: đức thờ phượng dạy ta phải nhìn nhận mọi sự mình có
là bởi Thiên Chúa mà ra. Đó là "đạo" Ông bà, thờ ông bà như Tạo Hóa.
Kết luận phần này: những ý nghĩa
có thể gặp thấy trong dân gian không thể chấp nhận được, vì nghịch với giáo lý
Kitô giáo.
II. THỬ TÌM Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA VIỆC CÚNG TẾ.
Cúng tế là việc phổ biến trong
hầu hết các tôn giáo (trong các tôn giáo lớn, chỉ Hồi giáo là không có cúng
tế). Vì vậy, phải xem đó là hành vi tôn giáo sơ khai, mà ý nghĩa đích thực đã
bị lệch lạc theo thời gian.
1- Tiêu chuẩn làm nên ý
nghĩa đích thực của cúng tế.
Ý nghĩa đích thực phải đạt được
tiêu chuẩn: a/ giải thích được việc cúng tế đối với mọi đối tượng cúng tế trong
các tôn giáo: Trời, Phật, thần minh, ông bà... b/ giải thích được việc tế lễ
trong Do thái giáo Cựu Ước và thánh lễ Kitô giáo.
2- Trình bày ý nghĩa đích
thực của việc cúng tế.
a/ Con người là sinh vật có ý
thức tôn giáo. Nhờ lý trí con người nhận thức rằng trong vũ trụ có một trật tự
chung: vật lý, sinh lý, luân lý; muôn loài đều cùng một nguồn gốc và đều tuân
theo trật tự chung tùy theo cấp bậc của mình: vật chất tuân theo trật tự vật
lý, thảo mộc và cầm thú tuân theo trật tự sinh lý, con người tuân theo trật tự
luân lý. Đây không đặt vấn đề: độc thần và đa thần, cái nào có trước? Ý thức
trật tự chung có trước, và dù là đa thần đi nữa, thì các thần minh đều nằm
trong trật tự đó.
b/ Do trật tự đó, thế giới hữu hình được ràng buộc (religare, religio) với thế
giới vô hình. Con người nhận của cải vật chất để sinh sống; nhờ sự sống đó, con
người mới hòa mình theo trật tự luân lý. Nói cách khác, con người tiếp thu sự
sống sinh lý để từ đó phát sinh ra đời sống luân lý xã hội. Mọi sinh hoạt xã
hội (quan hôn tang tế) chỉ có thể có nhờ sự sống sinh lý nhận được từ của cải
vật chất.
c/ Chính trong khi ăn uống, con
người thực hiện nhịp cầu (pontifex) từ trật tự sinh lý sang trật tự luân lý.
Mọi sinh vật đều có một sinh hoạt chính yếu: ăn và dự trữ thức ăn. Nhưng nơi
con người, cái sinh hoạt xem ra hèn hạ đó lại cung cấp cho con người sức sống
để hòa mình theo trật tự trời đất. Như vậy, khi ăn uống và dự trữ thức ăn thức
uống, con người làm một việc thiêng thánh: từ vật chất đi vào thế giới thần
linh, thế giới của trật tự luân lý.
d/ Đó là ý nghĩa việc cúng tế:
ăn uống với ý thức rằng mình nhờ thức ăn thức uống mà hòa mình vào trật tự
thiêng thánh của trời đất. Ăn uống với ý thức đó là làm một việc thiêng thánh:
sacrificium (cúng tế) là sacrum facere, làm sự thiêng thánh.
e/ Như vậy, cúng tế không phải là dâng cho thần minh (hay ông bà) lương thực,
mà trái lại, là trình với thần minh phẩm vật đã nhận được từ thần minh, và ăn
(hay để dành sau sẽ ăn) với ý muốn lấy từ đó sức sống để thực hiện trật tự luân
lý, thực hiện đạo tự nhiên, đạo Trời đất.
III. ÁP DỤNG VÀO VIỆC
CÚNG TẾ TRONG CÁC TÔN GIÁO
1- Trong đạo thờ Trời
Trong một nước, vua là người
chịu trách nhiệm tế Trời. Sau đây là vài trường hợp điển hình:
a/ Nhà Chu (thế kỷ 12-3 trước
CKT) phân chia thiên hạ cho chư hầu cai trị. Vua nhà Chu chỉ giữ một phần đất
nhỏ trên sông Hoàng Hà, hàng năm tế trời thay mặt thiên hạ (tế giao). Ý nghĩa
của việc cúng tế này là: Trời đã giao thiên hạ cho nhà Chu, vua nhà Chu nhận
thực phẩm Trời ban, nhờ đó vua sống để tiếp tục duy trì trật tự thiên hạ theo ý
Trời.
b/ Với chế độ thiên tử và chư
hầu như trên, vua nhà Chu dần dần mất hết thực quyền. Chư hầu thôn tính lẫn
nhau, thiên hạ loạn lạc. Thỉnh thoảng có một chư hầu nổi lên, như Việt Câu Tiễn
(thế kỷ 5 trước CKT) lập trật tự trong vùng hạ lưu sông Dương Tử, các nước chư
hầu trong vùng đều phục và tôn làm bá vương. Vua nhà Chu tế giao, gởi phần thịt
cho Câu Tiễn, với ý nghĩa là Câu Tiễn nhận lấy thức ăn để tiếp lấy sức sống mà
phụ lực với thiên tử duy trì trật tự theo ý Trời.
c/ Cuối thời Chiến quốc (thế kỷ
3 trước CKT), nước Tần diệt nhà Chu và mưu toan diệt luôn 6 nước chư hầu còn
lại. Thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha đi giết vua Tần (sau này là Tần Thủy
Hoàng), bày bàn thờ tế trên sông Dịch để tiễn Kinh Kha, ý nghĩa là: Kinh Kha
nhận thức ăn để tiếp lấy sức sống mà thi hành kế hoạch của thái tử Đan, kế
hoạch trừ bạo chúa để tái lập trật tự thiên hạ theo ý Trời.
2- Trong đạo Phật và đạo
Ông bà. a/ Cúng Phật có nghĩa là: trình những thức ăn (hoa quả) mà
thiện nam tín nữ và nhất là sư sãi sẽ dùng để sống theo giáo lý nhà Phật, giáo
lý từ bi hỉ xả, diệt khổ, giác ngộ chúng sinh v.v...
b/ Cúng Ông bà theo đúng ý nghĩa
là: trình phẩm vật mà mình sẽ dùng làm thức ăn, nhờ đó nhận được sức lực để
tiếp tục cuộc sống theo trật tự trời đất mà Ông bà đã nhận rồi truyền lại cho
con cháu.
3- Ý nghĩa biến dạng.
a/ Ý nghĩa đích thực đã trình
bày ở trên (phần II) bắt đầu biến dạng khi có quan niệm: không phải thần minh
(hay Trời, Ông bà) cho con người, mà con người cho thần minh thức ăn. Quan niệm
lệch lạc tiếp theo sau đó là: con người có thể dùng của ăn mà mua chuộc thần
minh, rồi: tai ương xảy đến là vì thiếu sót trong việc dâng cúng cho thần minh.
Từ đó dẫn đến các ý nghĩa (sai lạc) đã trình bày ở phần I.
b/ Khi cúng tế loài động vật thì
phải giết con vật. Từ đó nảy sinh ra quan niệm: thần minh khát máu, thần minh
hài lòng khi thấy con vật đau đớn. Thí dụ: một dân tộc vùng cao có tục lệ khi
tế thần thì cột con trâu nằm bẹp trên mặt đất, rồi lấy dao mà chặt lần từ mông
lên, khiến con trâu phải đau đớn trăm lần mới được chết; làm thế, mới hả lòng
thần.
c/ Biến dạng tồi tệ và ghê tởm
nhất: tế người, có thể là tù binh nhưng cũng có thể là con ruột của vua quan;
có khi quý tộc tranh giành nhau vinh dự được cúng con của mình. Thí dụ: dân
Aztec (Mêhicô trước thế kỷ 15) ra trận cố bắt sống địch chứ không đả thương, để
có thể trói sống trên bàn thờ, rồi rạch ngực, móc tim (còn đập) dâng lên thần.
(Nhờ đó quân Tây Ban Nha liều chết, lấy ít thắng nhiều, tiêu diệt đế quốc
Aztec).
IV. Ý NGHĨA ĐƯỢC HOÀN
THIỆN TRONG ĐẠO DO THÁI VÀ KITÔ.
1. Trong
đạo Môisen.
Thiên Chúa đã chọn Israel làm
dân riêng. Đó là Giao ước: Israel tuân giữ lề luật Chúa ban, Chúa sẽ cho Israel
làm chủ Đất hứa. Việc tuyển chọn đó diễn ra trong thời gian; Giao ước được thi
hành và cải tiến trong giòng lịch sử.
a/ Ý nghĩa của việc tế lễ được
nâng cấp: Con người trình trước Thiên Chúa sản phẩm của Đất hứa mà Chúa cho
mình dùng để tiếp nhận sức sống giúp con người hòa mình theo giòng lịch sử
tuyển chọn: phấn đấu thực thi Lề luật để sống lâu dài trên Đất mà Chúa đã hứa
cho tổ phụ.
b/ Ý nghĩa đích thực không ngừng
được bảo vệ cho khỏi lệch lạc: - Abraham tế Isaac (St 22): cấm tế người; không
phải con người dâng cho Thiên Chúa, mà trái lại nhận của Thiên Chúa: Abraham
không mang theo của lễ, Chúa chỉ cho ông con cừu mắc sừng trong bụi gai để làm
của lễ. - Giao ước Sinai: Môisen đọc các điều khoản luật cho dân nghe, dân đáp
chấp nhận, sau đó tế lễ ăn uống. - Các ngôn sứ không ngừng nhắc: Thiên Chúa đâu
thèm thịt chiên bò, của lễ đẹp lòng Chúa là đời sống công chính, là bước đi
trong đường lối Chúa.
c/ Sau thời lưu đày, dần dần
người Do thái chú ý đến các bữa ăn gia đình như là một cuộc tế lễ thật sự. Nghi
thức bữa ăn bắt đầu bằng lời tạ ơn chúc tụng vì hồng ân Đất hứa: ăn để tiếp tục
sống trên Đất hứa theo kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã giữ những
nghi thức này: khi hóa bánh ra nhiều, trong bữa Tiệc ly...
2. Thánh lễ
Kitô.
a/ Chúa Kitô hoàn tất lịch sử
tuyển chọn: trong bữa ăn cuối cùng, Người tiếp nhận lấy thức ăn bánh và rượu,
làm cho nó trở thành thịt và máu (tức là thân xác sống động) để với sức sống đó
nộp mình thực hiện chương trình cứu rỗi loài người bằng sự chết và sống lại.
b/ Khi dâng Thánh lễ và rước lễ, người Kitô hữu tiếp nhận thức ăn trần thế
(bánh với rượu) đã trở thành Mình Máu Chúa Kitô; nhờ đó, kitô hữu nhận được sức
sống cả phần xác lẫn phần hồn, để hòa mình vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, xây dựng
Nước Chúa ở trần gian.
c/ Đây không có ý vượt quá khuôn khổ của bài này, chỉ xin nêu lên những yếu tố
của Thánh lễ mà ý nghĩa của việc tế lễ (như đã trình bày) làm sáng tỏ một cách
đặc biệt:
Lời Chúa dẫn đến Mình Chúa.
- Tưởng niệm công trình Thiên Chúa (kinh Tiền tụng).
- Thánh hiến = làm sự thiêng thánh (sacri-ficium).
- Nhớ đến người chết và các thánh.
- Hiệp lễ: hòa mình vào mầu nhiệm, với Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Việc tham dự lễ nghi cúng bái Ông Bà Tổ Tiên chỉ có thể là chính đáng khi nắm
vững được ý nghĩa đích thực của việc cúng tế. Hơn thế nữa, nếu ý nghĩa đó là
đúng đắn, có thể tiếp nhận việc cúng bái vào trong phụng vụ Kitô giáo với kết
quả phong phú. Đó là đề tài của một bài sau, nếu được phép và thuận tiện.